Tổng quan về việc điều chỉnh tỷ giá USD / VND liên ngân hàng :: NH Nhà Nước

Sáng 11/2/2011, Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 20.693 Đồng/USD sau gần 7 tháng duy trì ở mức 18.932 đồng, tăng thêm 9,3% so với ngày 10/2/2011.
Trước khi điều chỉnh:
1 USD = 18,932 VND
Sau khi điều chỉnh:
1 USD = 20,693 VND

 



Việc điều chỉnh tăng tỷ giá Đồng này mang ý nghĩa: “USD đắt hơn, VND rẻ hơn“.

VND rẻ sẽ mang lại những lợi ích sau:

Cải thiện cán cân thương mại. Thâm hụt thương mại hàng hóa 2010 lên tới 12.4 tỷ USD, bằng 17.3% kim ngạch xuất khẩu. Cán cân thương mại của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ giá:

  • Đồng nội tệ giảm giá sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp nhiều thuận lợi hơn khi hàng hóa được xuất khẩu với giá rẻ hơn, năng lực cạnh tranh được cải thiện.
  • Trong khi đó, USD đắt hơn sẽ khiến giá trị quy đổi ra VND cao, kéo theo giá cả hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn trước. Chính vì vậy, nhập khẩu sẽ giảm đi và cán cân thương mại được cải thiện. 
  • Đây còn là phương án khuyến khích người dân trong nước ủng hộ hàng Việt Nam, và hạn chế sử dụng hàng ngoại nhập.
Tuy nhiên tỷ giá chỉ là một trong những nhân tố tác động đến thâm hụt thương mại. Yếu tố chính vẫn là các dòng tiền từ bên ngoài đổ vào Việt Nam như đầu tư FDI, FPI, ODA, kiều hối và dòng tiền đầu tư chứng khoán, bất động sản.
Minh bạch thị trường ngoại hối: Việc điều chỉnh tỷ giá giúp thu hẹp chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và giao dịch thực tế. Quy mô thị trường chợ đen giảm xuống, hoạch toán các giao dịch tỷ giá tại ngân hàng và doanh nghiệp trở nên minh bạch hơn.
Dòng vốn gián tiếp tự tin giải ngân: Một tác dụng quan trọng khác là đợt điều chỉnh tỷ giá này sẽ thúc đẩy thu hút thêm các dòng vốn đầu tư gián tiếp, và giúp khối nhà đầu tư nước ngoài tự tin hơn trong việc giải ngân, nhờ sự ổn định tỷ giá có thể tiên đoán được trong thời gian tới.

Mặt trái của việc tăng tỷ giá USD/VND:

Lạm phát:
Việt Nam là một nước nhập siêu, trong đó hàng hóa cần phải nhập khẩu bao gồm nguyên vật liệu đầu vào, máy móc phục vụ sản xuất… và đặc biệt là xăng dầu. Phá giá tiền đồng làm cho giá các mặt hàng nhập khẩu này đắt hơn, khiến chi phí sản xuất cũng như giá đầu ra của thành phẩm bị đẩy lên cao. Hậu quả là lạm phát tăng cao chóng mặt.

Rủi ro tỷ giá & Thị trường chứng khoán: Dường như việc VND bị phá giá đã được các nhà đầu tư dự báo và chiết khấu vào giá cổ phiếu.
Doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ sẽ chịu tác động rất mạnh bởi việc điều chỉnh tỷ giá này. Cùng vay và trả một lượng ngoại tệ, nhưng sau khi tỷ giá điều chỉnh, phần tiền VND phải thanh toán tăng lên đột biến. Trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá sẽ tăng lên khiến các doanh nghiệp mất đi một khoản chi phí lớn.

Nhìn chung rủi ro tỷ giá sau khi hạ giá VND thể hiện ở chỗ: các khoản nợ nước ngoài (tính bằng USD) của Việt Nam nếu chuyển sang tính bằng VND sẽ thấy nợ phải trả bất ngờ tăng thêm 9.3% – một khoản tiền không hề nhỏ. Ngược lại, dự trữ ngoại tệ (USD) của Việt Nam khi quy đổi sang VND cũng tăng thêm 9.3%, nhưng giá trị tăng thêm này không đáng kể so với nợ phải thanh toán.

Tháng 6.2011, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã được bổ sung thêm 0,9 tỷ USD, lên mức 13,5 tỷ USD.
Tổng số dư nợ nước ngoài của Việt Nam tính đến ngày 31-12-2010 ở mức 835 nghìn tỉ đồng (tương đương 41 tỷ USD), bằng 42,2% GDP năm 2010 và dự báo sẽ ở mức 44,5% GDP năm 2011. (Nguồn: Bộ Tài chính)

Tham khảo thêm:
http://vef.vn/2011-02-11-dieu-chinh-ty-gia-usd-loi-hay-hai-

Nhớ Download Tài Liệu Chứng Khoán về đọc thêm